Khoa học - Lịch sử 2014-10-02 17:25:45

Dành cho những ai đam mê lịch sử và AOE: chiến xa Chariot (Cung R bá đạo)


Một số đế chế được nhắc đến trong bài:
- Sumeria
- Hittile
- Persian (Iran)
- Egyptian
- Greek
- Shang (Khựa)
 
Chariot là loại xe ngựa kéo sơ khai và đơn giản nhất, được sử dụng cả trong chiến tranh cũng như thời bình như là phương tiện quan trọng bậc nhất của nhiều dân tộc cổ đại. Chariot được tạo ra ở khu vực Lưỡng Hà bởi các cư dân ở đây ngay từ khoảng năm 3000 trước Công nguyên và tại Trung Quốc trong thời gian thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Chariot nguyên bản là một cỗ xe 2 hoặc 4 bánh được kéo bởi 2 hay nhiều con ngựa buộc sát cạnh nhau. Cỗ xe kéo nhỏ với một khung chắn bảo vệ cao đến thắt lưng ở phía trước. Chariot, điều khiển bởi một người đánh xe (charioteer), được sử dụng cho chiến tranh thời cổ đại trong suốt thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt. Cỗ xe này tiếp tục được dùng trong di chuyển, diễu hành và trong các cuộc thi đấu, các cuộc đua sau khi nó không còn được dùng với mục đích quân sự.
Từ “chariot” bắt nguồn từ tiếng Latinh “carrus”, bản thân nó là từ ngữ vay mượn từ tiếng Gaule (tên của một xứ thời cổ ở Tây Âu, bao gồm những vùng ngày nay là Pháp, Bỉ, phía tây Thụy Sĩ, một phần Hà Lan, và một phần Đức phía tây sông Rhine). Một cỗ xe chariot trong chiến tranh hay đoàn diễu hành được gọi là “car”. Tại La Mã cổ và các quốc gia Địa Trung Hải xưa kia, một Biga là một cỗ xe chariot song mã, một Triga sử dụng tam mã và một Quadriga thì được kéo bởi tứ mã sóng hàng. Những thuật ngữ cổ xưa dùng cho Chariot bao gồm chair, charet và wain.
Những Chariot ngựa kéo sử dụng trong chiến trận có những bánh xe lắp nan hoa. Hầu hết những con ngựa trong thời kỳ này không thể chịu được trọng lượng của một người đàn ông trong trận chiến. Kỵ binh đã được sử dụng ở Trung Á từ năm 3000 trước Công nguyên và cuối cùng đã thay thế lực lượng quân đội chiến đấu trên những cỗ xe Chariot.
Những cỗ xe Chariot có bánh xe nan hoa sớm nhất đã tồn tại từ năm 2000 trước Công nguyên và cách sử dụng chúng đạt đến đỉnh cao vào khoảng năm 1300 trước Công nguyên (điển hình là trong trận Kadesh giữa người Ai Cập và người Hittite). Chariot mất ý nghĩa quan trọng trong quân đội vào thế kỷ thứ 4 trước công nguyên nhưng những cuộc đua Chariot vẫn tiếp tục phổ biến ở Constantinople cho đến tận thế kỷ thứ 6.

Hình vẽ Chariot

Một bức tượng Chariot
 
1. Những phương tiện có bánh xe đầu tiên ở Sumer


Chariot có lẽ bắt nguồn ở Lưỡng Hà và khoảng năm 3000 trước Công nguyên. Sự mô tả sớm nhất về những cỗ xe trong bối cảnh chiến tranh là ở trên “Cờ hiệu của Ur” ở Nam Lưỡng Hà, khoảng năm 2500 trước Công nguyên(Ur là một thành phố cổ của người Sumer, ngày nay nằm ở phía Nam Bát-đa, Iraq). Chúng được gọi một cách đúng đắn hơn là xe bò hay xe ngựa, có trục xe đôi và được kéo bởi những con bò hay những con lừa thuần dưỡng, trước khi đưa ngựa vào sử dụng khoảng năm 2000 trước công nguyên. Mặc dù đôi khi chở theo một binh sĩ dùng giáo cùng với người đánh xe, những cỗ xe chariot nguyên thủy nặng nề thuộc loại này, được chống đỡ trên những bánh xe bằng gỗ đặc, có lẽ là một phần của đoàn xe chở hàng hơn là những phương tiện trong chiến trận. Người Sumer cũng có một loại chariot 2 bánh nhẹ hơn, được kéo bởi những con lừa, nhưng vẫn là với những bánh xe đặc. Bánh xe nan hoa không xuất hiện ở Lưỡng Hà cho đến những năm 2000 trước công nguyên.

Chariot ở trên cờ hiệu của thành phố Ur

2. Những người Iran-Ấn.


2.1. Người Iran-Ấn nguyên thủy
Sự phát triển đầy đủ của chariot được biết đến sớm nhất là từ những nơi chôn cất chariot (nơi mà người chết được chôn cùng cỗ xe chariot của họ) từ khoảng năm 2000 trước công nguyên ở Andronovo (Timber-Grave), khu vực thuộc về nền văn hóa Sintashta-Petrovka ở Nga và Kazakhstan hiện nay. Nền văn minh này ít nhất có một phần được bắt nguồn từ nền văn minh Yamna trước đó. Nó đã tạo dựng lên những khu định cư vững chắc, tiến hành những hoạt động luyện kim loại đồng trên quy mô chưa từng thấy cho đến nay và thực hiện những nghi lễ mai táng phức tạp gợi đến những nghi lễ của người A-ri-an. Nền văn minh Andronovo trong vài thế kỷ tiếp đó đã lan rộng ra khắp các thảo nguyên từ dãy núi Uran đến dãy núi Thiên Sơn, có thể tương ứng với nền văn minh Iran-Ấn sơ khai, cuối cùng cũng truyền bá đến Iran và Ấn Độ trong thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên.
Chariot được nhắc đến một cách nổi bật trong thần thoại của người Iran-Ấn. Chariot cũng là một phần quan trọng của thần thoại Hindu và Ba Tư, với hầu hết các vị thần của họ được vẽ chân dung khi đang đi trên những cỗ xe này. Từ ngữ trong tiếng Phạn của chariot là từ ratha.
 
2.2. Ấn Độ
Có một vài khắc họa chariot trên những bức tranh điêu khắc trên đá sa thạch của dãy núi Vindhya. Hai bức họa về Chariot được tìm thấy ở Morhana Pahar, quận Mirzapur. Một bức thể hiện cỗ xe song mã với một người điều khiển hữu hình. Bức kia là cỗ xe được kéo bởi bốn con ngựa, với những bánh xe có 6 nan hoa, và thể hiện một người điều khiển đứng trong một toa xe kéo lớn. Cỗ xe chariot này đang bị tấn công, với một nhân vật đang cầm một cái khiên và một cái chùy, một nhân vật khác trang bị cung tên đang hăm dọa từ phía bên phải. Người ta đưa ra giả thuyết rằng bức vẽ này ghi lại một câu chuyện, hầu như chắc chắn là có niên đại từ những thế kỷ xa xưa trước công nguyên, từ một vài trung tâm của khu vực đồng bằng sông Hằng và sông Jamuna cho đến lãnh thổ vẫn còn là các bộ lạc săn bắn của thời kỳ đồ đá mới.
Scythed chariot được sáng chế ra bởi vua của Magadha (phía Đông Ấn Độ ngày nay), Ajatashatru vào khoảng năm 475 trước công nguyên. Ông đã sử dụng những cỗ xe chariot này để chống lại Licchavis (vương quốc năm trên khu vực bang Bihar của Ấn Độ). Một cỗ xe Scythed chariot là một chariot với những lưỡi dao sắc hình liềm được gắn vào mỗi đầu của trục xe. Lưỡi dao, dùng như một vũ khí, kéo dài theo chiều ngang khoảng 1 mét ở 2 phía của chariot.
2.3. Ba Tư
Người Ba Tư kế tiếp người Elam (là một trong những nền văn minh được ghi chép cổ nhất của thế giới) vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất. Họ có lẽ là những người đầu tiên buộc ách cho 4 con ngựa (hơn là hai con) vào cỗ xe chariot của họ. Họ cũng đã dùng scythed chariot. Hoàng tử Cyrus em đã đưa vào sử dụng loại chariot này với số lượng lớn. Nhà sử học Hy Lạp Herodotus đề cập rằng người Liby đã cung cấp kỵ binh và chariot cho quân đội của hoàng đế Xerxes. Tuy nhiên, vào thời gian này, kỵ binh có hiệu quả và nhanh nhẹn hơn nhiều so với chariot, và thất bại của vua Darius III trong trận Gaugamela (331 trước công nguyên), khi quân đội của Alexander bỏ trống hàng ngũ để cho chariot vượt qua rồi tấn công họ từ đằng sau, đánh dấu sự chấm dứt của kỷ nguyên chiến tranh dùng chariot.

3. Vùng Cận Đông


Một số nhà nghiên cứu đưa ra ý kiến rằng chariot rất có khả năng là sản phẩm của vùng Cận Đông cổ đại vào đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên.
 
3.1. Armenia
Tại vương quốc Urartu Armenia, chariot được sử dụng trong giới quý tộc và trong quân đội. Tại Yerevan, Armenia, vua Argishti của Urartu được mô tả đang đi trên một cỗ xe Chariot song mã. Chariot này có 2 bánh xe và mỗi cái có tám nan hoa. Loại chariot này được sử dụng vào khoảng năm 800 trước công nguyên.
3.2. Hittite
Bằng chứng cổ nhất của chiến tranh dùng chariot ở vùng Cận Đông cổ đại là văn bản của Anitta bằng tiếng Hittite cổ (thế kỷ 18 trước công nguyên), nói đến 40 đội ngựa trong trận bao vây Salatiwara, Anatolia. Bởi vì chỉ có “những đội ngựa” được đề cập đến ở đây chứ không rõ ràng là những chariot, vậy nên sự hiện diện của chariot trong thế kỷ 18 được coi là có phần không chắc chắn. Bằng chứng đích xác đầu tiên về chariot ở đế chế Hittite là vào cuối thế kỷ 17 trước công nguyên (thời kỳ của vua Hattusili I). Một văn bản về việc huấn luyện ngựa của người Hittite vẫn còn tồn tại, được cho là của Kikkuli the Mitanni (thế kỷ 15 trước công nguyên)
Người Hittite nổi tiếng về khả năng điều khiển chariot. Họ đã phát triển một kiểu chariot mới, có những bánh xe nhẹ hơn với 4 nan hoa chứ không phải 8, và chở được 3 người lính chứ không phải 2. Sự thịnh vượng của Hittite phần lớn là phụ thuộc vào sự kiểm soát của họ vào tuyến đường buôn bán và tài nguyên thiên nhiên, cụ thể là các kim loại. Khi người Hittite giành được quyền thống trị trên khắp vùng Lưỡng Hà, tình trạng căng thẳng bùng lên giữa những nước láng giềng là Assyria, Hurian và Ai Cập. Dưới thời Suppiluliuma I, người Hittite xâm chiếm Kadesh và cuối cùng là toàn bộ Syria. Trận Kadesh năm 1299 trước công nguyên có lẽ là trận chiến lớn nhất mà chariot tham gia, bao gồm khoảng chừng 5 nghìn cỗ xe chariot.

Hình vẽ chariot của người Hittite
3.3. Ai Cập
Chariot, cũng như cùng với loài ngựa, được đưa vào sử dụng ở Ai Cập bởi những kẻ xâm lược Hyksos trong thế kỷ 16 trước công nguyên và rõ ràng đã đóng góp vào những thành tựu quân sự của họ. Trong nghệ thuật của Ai Cập và Assyria còn tồn tại, có nhiều sự miêu tả hình tượng của Chariot. Những cỗ xe Chariot của Ai Cập và Assyria, với người lính lấy cung làm vũ khí tấn công chính, được trang bị đầy đủ những ống đựng đầy các mũi tên. Người Ai Cập phát minh ra ách để thắng cho những con ngựa ở chariot của họ và khoảng năm 1500 trước công nguyên. Hình mẫu được lưu giữ tốt nhất của Chariot Ai Cập là 4 mẫu vật từ lăng mộ của Pha-ra-ông Tutankhamun.


Chariot của Ai Cập

Vua Ramses II của Ai Cập trong trận Kadesh với người Hittite
3.4. Chariot trong Kinh Thánh
Những cỗ xe chariot thường xuyên được đề cập đến trong Kinh Cựu Ước (còn gọi là Kinh Thánh Do Thái), đặc biệt bởi những sách tiên tri, như một công cụ của chiến tranh hoặc biểu tượng của sức mạnh hay sự vinh quang. Đầu tiên là trong câu chuyện của Joseph (sách Genesis, quyển thứ nhất của Kinh Cựu Ước), “những Chariot sắt” cũng được nói đến trong sách Joshua (quyển thứ sáu) và sách Judges (quyển thứ bảy) với tư cách là vũ khí của người Canaan (vương quốc cổ đại ở Trung Đông). Sách Samuel 1 nói về chariot của người Philistia, những người đôi khi được coi là cư dân biển Địa Trung Hải hay những người Hy Lạp cổ.
4. Trung Quốc
Khu vực lăng mộ chariot sớm nhất ở Trung Quốc được khám phá vào năm 1933 tại tỉnh Hà Nam của đất nước này, có niên đại vào thời kỳ trị vì của vua Vũ Đinh của triều đại Hậu Thương (hay còn gọi là nhà Ân, khoảng năm 1200 trước công nguyên). Nhưng những cỗ xe chariot có lẽ được biết đến từ trước đó, ngay từ triều đại nhà Hạ (thế kỷ 17 trước công nguyên). Trong suốt triều đại nhà Thương, những thành viên hoàng gia được mai táng với một gia đình đầy đủ và những người nô bộc, bao gồm cả một cỗ xe chariot, những con ngựa và một người đánh xe. Chariot thời nhà Thương thường được kéo bởi 2 con ngựa, nhưng những cỗ xe tứ mã thỉnh thoảng cũng được tìm thấy trong các hầm mộ. Đội ngũ trên một cỗ xe chariot gồm có 1 cung thủ, một người đánh xe, và đôi khi có một người thứ ba được trang bị giáo hay mác. Trong suốt thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, người Trung Quốc sử dụng Chariot đạt đến đỉnh cao, chúng xuất hiện với số lượng ngày càng to lớn, nhưng bộ binh lại thường đánh bại chúng trong chiến trận.
Chariot trở thành lỗi thời trong thời kỳ Chiến Quốc, lý do chính là sự phát minh ra nỏ và sự ra đời của kỵ binh bắn tên, những thứ có hiệu quả hơn.

Bức tượng người điều khiển chariot bằng đồng của Trung Quốc
 
5. Châu Âu


5.1. Vùng Bắc Âu
Chariot mặt trời của Trundholm có niên đại vào khoảng năm 1400 trước công nguyên. Con ngựa kéo đĩa mặt trời chạy trên 4 bánh xe, và mặt trời thì tự nó năm trên 2 bánh xe khác. Tất cả đều là bánh xe có nan hoa. Chariot này chỉ có đĩa mặt trời, trục và bánh xe, và người ta không rõ là mặt trời được hình dung là chính cỗ xe chariot đó hay là cưỡi trên một chariot.
Bổ sung thêm vào với chariot Trundholm, có một số tranh khắc đá từ thời đại đồ đồng Bắc Âu thể hiện những cỗ xe Chariot, ví dụ như một trong số những phiến đá vào khoảng năm 1000 trước công nguyên, vẽ hình một cỗ xe chariot với 2 bánh xe 4 nan hoa, được kéo bởi một đội song mã.
Việc sử dụng cung tên trên chariot không chứng thực được ở Bắc Âu.

Chariot mặt trời của Trundholm

tranh khắc đá từ thời đại đồ đồng Bắc Âu thể hiện những cỗ xe Chariot
5.2. Trung Âu và đảo Anh
Người Xen-tơ (Celts) là những người chế tạo Chariot nổi tiếng, và từ Tiếng Anh “car” được tin rằng có nguồn gốc từ tiếng Latinh carrum và tiếng Gaule karros. Khoảng 20 hầm mộ Chariot thời kỳ đồ sắt được khai quật ở Anh, có niên đại ước chừng giữa năm 500 và năm 100 trước công nguyên, hầu như tất cả chúng đểu ở Đông Yorkshire, với trường hợp ngoại lệ là một lăng mộ tìm thấy năm 2001 ở Newbridge, cách Edinburgh 10km về phía Tây.
Chariot của người Xen-tơ có lẽ được gọi là carpentom, được kéo bởi một nhóm 2 con ngựa và đo được khoảng 2m chiều rộng và 4m chiều dài. Bánh xe chariot có một mảnh vành bằng sắt có lẽ là phát minh của người Xen-tơ. Ngoài vành và trục bánh xe bằng sắt, chariot được làm từ gỗ và cây liễu gai. Trong một vài trường hợp, những vòng tròn sắt được củng cố vào những khớp nối.
 
5.4. Hy Lạp
Người Hy Lạp cổ có kỵ binh (tuy vẫn không thực sự hiệu quả), và địa hình nhiều đá của vùng đất Hy Lạp không phù hợp với các cỗ xe có bánh. Bởi vậy, tại Hy Lạp (cũng như sau đó tại Rome), các cỗ xe Chariot chưa bao giờ được sử dụng trong lĩnh vực chiến tranh. Tuy nhiên, Chariot lại giữ một địa vị cao và những sự kiện của thời đại này được truyền lại trong các thiên sử thi. Những cỗ xe được sử dụng trong các cuộc thi đấu và các đoàn diễu hành, nhất là cho các cuộc đua của Olympic và Panathenaic Games cùng những lễ hội công cộng khác ở Hy Lạp cổ đại, trong trường đua ngựa và trong các trận thi đấu gọi là “agons”. Chúng cũng được dùng trong những buổi lễ trang trọng khác nữa.
Theo thần thoại Hy Lạp, chariot được phát minh ra bởi vua Erichthonius của Athens để che giấu đôi chân ông, vốn là của một con rồng. Sự xuất hiện đáng chú ý nhất của chariot trong thần thoại Hy Lạp diễn ra khi Phaeton, con trai của Heliou, trong nỗ lực điều khiển chariot của mặt trời, gây hỏa hoạn trên Trái Đất. Câu chuyện này dẫn đến nghĩa cổ của một phaeton là người mà điều khiển chariot hay xe ngựa bốn bánh, đặc biệt là với một tốc độ liều lĩnh và nguy hiểm.

Thần Dớt trên một cỗ xe Chariot
6. Đế chế La Mã


Người La Mã có lẽ đã du nhập những cuộc đua chariot từ người Etruscan, bản thân những người này đã du nhập nó từ người Xen-tơ hoặc người Hy Lạp, nhưng người La Mã bị ảnh hưởng trực tiếp từ người Hy Lạp nhất là sau khi họ xâm chiếm vùng đất Hy Lạp vào năm 146 trước công nguyên. Tại đế chế La Mã, chariot không sử dụng trong chiến tranh, nhưng trong các cuộc đua chariot, đặc biệt tại đấu trường hay trong những cuộc diễu hành chiến thắng, khi đó chúng có thể được kéo bởi 10 con ngựa hay thậm chí bởi những con chó, hổ hoặc đà điểu. Trung tâm chính của cuộc đua chariot là đấu trường Maximus, được đặt trong thung lũng giữa các ngọn đồi Palatine và Aventine của Rome. Đường đua có thể chứa được 10 chariot. Những cuộc đua chariot tiếp tục đươc ưa chuộng và phổ biến trong thời kỳ của đế chế Byzantine, tại trường đua của Constantinople, thậm chí sau khi Olympic bị hủy bỏ, chỉ suy tàn sau cuộc nổi loạn Nika trong thế kỷ thứ 6.
Một cỗ xe chariot La Mã cổ đại được kéo bởi 4 con ngựa sóng hàng cùng nhau gọi là một xe tứ mã (quadriga, bắt nguồn từ tiếng Latinh quadrijugus là bộ tứ). Một chariot 3 ngựa gọi là xe tam mã (triga)

Những người chiến thắng trong cuộc đua chariot ở La Mã
 
Không thể thực hiện tác vụ do chủ đề hiện đang ở trạng thái lưu trữ

Chủ đề cùng mục


Lời Ca Khúc Điểm nhanh Hợp âm az Chords up Tin xe nói về xe

Bản quyền bởi VietYO.com v3.0 - Viet Nam Youth Online
Diễn đàn mở của cộng đồng người Việt trẻ online - Liên hệ (info @ vietyo.com)