Người ta vẫn chưa xác định hết danh tính của tập thể thợ vẽ và thợ khắc Việt Nam đã làm việc với Henri Oger để hoàn tất bộ tranh độc đáo trên. Theo tài liệu của Viện Từ điển Bách khoa Việt Nam, chỉ thấy nhắc đến vài người trong số đó như Phạm Trọng Hải (quê Hưng Yên), Nguyễn Văn Giai, Phạm Văn Thiêu, Nguyễn Văn Đang (cả ba đều quê Hải Dương).
Bộ tranh đồ sộ trên xuất bản lần đầu tiên với tựa Kỹ thuật của người An Nam (Technique du peuple Annammite) vào hơn 100 năm trước (1009-2010), gồm 2 tập khổ lớn và với số lượng rất ít - chưa đầy 60 bản - vì thế đã trở nên quý hiếm và gần như "tuyệt tích”.
Ở nước ngoài, một ít bản hiện lưu giữ dưới dạng vi phim tại các ĐH như Johns Hopkins Baltimore, Southern Illiois Carbondale, California Berkeley, Cornell. Tại Pháp, lưu ở Thư viện nghệ thuật và khảo cổ học - Paris IV Sorbonne. Tại Nhật, lưu ở ĐH Keio, Minato-Ku. Riêng ở Việt Nam là nơi ấn hành hiện cũng chỉ còn biết đến hai bản: một bản (không đầy đủ) lưu giữ tại Thư viện quốc gia Hà Nội, và một bản khác (tương đối tốt) lưu giữ tại Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. HCM.
Vì giá trị văn hóa và nhiều điểm độc đáo trong công trình của Henri Oger và các họa sĩ, nghệ nhân Việt Nam, nên một dự án tái bản bộ sách được bàn định theo sáng kiến của Viện Viễn đông bác cổ Pháp tại Hà Nội và người khởi xướng trực tiếp là ông Jean Jacques Donnard, phụ trách vùng của dự án phát huy di sản thư tịch ở Đông Nam Á (dự án VALEASE).
Bản mẫu cho lần tái bản này lấy từ bản lưu của Thư viện Khoa học Tổng hợp TP HCM nói trên, cấu trúc của ấn bản gốc được giữ nguyên trạng và in làm 3 tập, dày hơn 975 trang, khổ rộng 31,5 x 24cm. Tập 1 gồm bản văn (bằng 3 thứ tiếng Anh, Pháp, Việt - bản dịch tiếng Anh của Sheppard Ferguson, bản dịch tiếng Việt của Trần Đình Bình) giới thiệu tổng quát về kỹ thuật của người Việt Nam thể hiện chủ yếu vào 4 chủ đề ký họa gồm:
1.Những bản vẽ tại chỗ về sinh hoạt, công cụ của các nghề "lấy nguyên liệu từ thiên nhiên” như nghề nông, đánh cá, săn bắn, vận tải, hái lượm…
2. Những bản vẽ về các người thợ và động tác của nghề "chế biến nguyên liệu lấy từ thiên nhiên” như làm giấy, kim loại quý, gốm, sắt, đồng, thiếc, gỗ, tre, mây, chế biến hoa quả, vải sợi, tơ lụa, lông, da…
3. Những bản vẽ về các nghề "dùng nguyên liệu đã qua chế biến” như bán tạp hóa, làm và bán các loại đá, đồ trang sức, tô vẽ tranh và sơn mài, điêu khắc và tạc tượng, đồ thờ, nghệ thuật nấu ăn, may mặc, xây dựng, đồ nội thất, đồ gia dụng và mứt bánh…
4. Những bản vẽ thể hiện "đời sống riêng và đời sống cộng đồng của người dân” bao gồm các nhạc lễ thông dụng, các sinh hoạt tín ngưỡng, bói toán, trị liệu dân gian, hình ảnh tết và lễ, trò chơi và đồ chơi, nghề bán rong thường thấy…
Cạnh đó, Philippe Le Failler và Olivier Tessier có lời tựa giới thiệu bao quát bối cảnh lịch sử và khoa học khi công trình của Henri Oger ra đời và giá trị của công trình này đối với nghiên cứu lịch sử Việt Nam cũng như đời sống văn hóa kỹ thuật Việt Nam đương đại.
Tập 2 và tập 3 in lại toàn bộ 700 bản tranh khắc (với khoảng 4.200 ký họa). So với bản gốc (và các công trình giới thiệu về bộ sách xuất bản trước đây), thì lần tái bản này cung cấp đến độc giả bản dịch sang tiếng Việt toàn bộ các tiêu đề và ghi chú bằng chữ Hán Nôm trong bộ sách (do nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Nguyên đảm trách).
Bộ sách có bài của Pierre Huard giúp độc giả ngày nay biết chi tiết về tác giả Henri Oger. Theo đó, Henri Oger sinh năm 1885 tại Montrévault (Pháp), học triết học, tiếng La tinh và tiếng Hy Lạp, học trường Cao học thực hành năm 1906, đến Hà Nội hai năm 1907-1909, làm viên chức hành chánh dân sự của Đông Dương năm 1910-1912, có bằng tiếng Việt và tiếng Hán. Về lại Pháp năm 1919, vì bị bệnh. Ông mất tích năm 1936.
Trong thời gian ở Việt Nam, Henri Oger thực hiện "đề án quan trọng nhất (và cũng đủ làm rõ cá tính của ông là nhà nghiên cứu trẻ, mới 24 tuổi), trên thực địa (đi ròng rã một năm trời khắp các xưởng, các cửa hàng, các đường phố của Hà Nội và làng quê cùng một họa sĩ Việt Nam) để ghi nhận những điều trông thấy qua ký họa.
Xong việc, Henri Oger tìm cách xuất bản, nhưng thời bấy giờ không một nhà in nào ở Hà Nội đảm nhiệm được việc đó và cũng chưa có sự trợ giúp chính thức nào (cho công trình). May mắn là, không lâu sau, Henri Oger được 20 người tốt bụng ủng hộ khoảng tiền 200 đồng bạc nên đã tuyển được 30 thợ khắc gỗ ứng tác trong hai xưởng đặt tại chùa Vũ Thạch. Cuối cùng, bộ sách cũng in xong trên giấy của "những người làm giấy làng Bưởi, loại giấy đặc biệt được làm từ vỏ cây thụy hương”.
Ấn bản không phải nộp lưu chiểu và không đưa vào thư viện quốc gia. Điều đó đã khiến Pierre Huard kêu lên: "Tôi không tưởng tượng được là mình đã không tìm thấy bản (in) nào của công trình này trong các thư viện ở Paris (chỉ có bản vi phim)”.
Lúc mới ra đời với số lượng hẩm hiu ít ỏi nêu trên, tác phẩm nầy đã không được hưởng bất kỳ sự tán thưởng nào từ phía công chúng nước Pháp cũng như ở Việt Nam (kể cả những người quan tâm tới triết học, khảo cổ học và văn học dân gian lúc bấy giờ). Nhưng đến nay, việc tái bản, phục hồi công trình, được tiến hành nghiêm túc, đầy trang trọng như đã nói ở đầu bài, đánh dấu số tuổi hơn 100 năm sau lần xuất hiện đầu tiên của công trình ký họa độc đáo về Hà Nội năm xưa.
Dưới đây là một số bức ký họa trong bộ tranh:
Theo Kyluc