| [size=1]Sau khi dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ, Mỹ đã cho máy bay B-52 rải bom miền Bắc Việt Nam.[/size] | | [justify][size=2](VnMedia) - Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ hôm 14/7 đã công bố hơn 1.100 trang tài liệu từng được coi là tuyệt mật về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Những tài liệu này cho thấy nhiều nghị sĩ Mỹ thời đó tỏ ra nghi ngờ “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”. Theo đó, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã cố tình dựng lên vụ tàu Hải quân Việt Nam tấn công tàu khu trục của Mỹ ở vịnh Bắc Bộ để lấy cớ tấn công miền Bắc Việt Nam năm 1964. “Nếu đất nước này bị lừa dối, nếu ủy ban này, Quốc hội này bị lừa vào một cuộc chiến tranh khiến hàng ngàn thanh niên mất mạng, hàng ngàn người khác bị tàn tật suốt đời và cũng khiến đất nước này đánh mất vị trí về uy tín và đạo đức trên thế giới thì hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng,” Thượng nghị sĩ Albert Gore Sr. bang Tennessee, cha của một Phó Tổng thống Mỹ sau này, đã nói như vậy hồi tháng 3 năm 1968 tại một phiên họp kín của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện. Những tài liệu vừa được công bố nói trên là những bản ghi chép lại nội dung các cuộc họp của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện. Ủy ban này thường họp kín trong suốt những năm 1960 cho đến khi họ bị Thượng viện yêu cầu phải họp công khai. Các tài liệu này sau đó đã được một sử gia của Thượng viện có tên là Donald Ritchie biên tập và ấn hành năm 1968, đúng thời điểm các nghị sĩ đang đau đầu về cuộc chiến tranh Việt Nam và đang có mối quan hệ ngày càng xấu đi với chính quyền của Tổng thống Johnson cũng vì cuộc chiến tranh này. Theo các nhà lịch sử, những bản ghi chép này chứa đầy những lời lẽ giận dữ của các Thượng nghị sĩ về chính quyền của Tổng thống Johnson cũng như nỗi thất vọng về sự bất lực của chính bản thân họ. Lúc đó, sự hoài nghi về sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã lan rộng trong dân chúng Mỹ. Tổng thống Lyndon B. Johnson thời đó đã lấy cớ sự kiện Vịnh Bắc Bộ để thuyết phục Quốc hội Mỹ cho phép mở rộng cuộc chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, các nhà lịch sử trong những năm gần đây đã kết luận cái mà Mỹ gọi là vụ tàu Hải quân Việt Nam tấn công một tàu khu trục của họ ở Vịnh Bắc Bộ ngày 4/8/1964 chưa bao giờ thực sự xảy ra. Các tài liệu mới được công bố cho thấy sự phẫn nộ mà các Thượng nghị sĩ thể hiện đằng sau những cánh cửa đóng kín. “Trong một nền dân chủ, bạn không thể mong chờ những người mà con trai của họ đã bị giết chết và sẽ bị giết chết chấp nhận việc họ bị lừa dối,” Thượng nghị sĩ Frank Church, thành viên Đảng Dân chủ đến từ bang Idaho, phát biểu tại một phiên họp hồi tháng 2 năm 1968. Tuy nhiên, các Thượng nghị sĩ cũng tỏ ra lo ngại việc tiến hành một cuộc điều tra về những nghi ngờ xung quanh sự kiện Vịnh Bắc Bộ có thể sẽ kích động đất nước này thêm nữa. Như Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, một người của Đảng Dân chủ ở bang Montana, nói: “Các bạn sẽ đưa cho những người vốn không quan tâm đến chuyện này một cơ hội để khai thác và thổi phồng mọi chuyện lên.” Ở tại một thời điểm khác, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Mỹ thời đó - Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ William Fulbright đến từ bang Arkansas, đã bày tỏ sự quan ngại rằng nếu các Thượng nghị sĩ không ủng hộ cuộc chiến tranh Việt Nam thì “chúng ta sẽ chỉ là một khúc ruột thừa vô giá trị của bộ máy chính quyền.” Trong khi đó, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện đương nhiệm – Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa John Kerry thuộc bang Massachusetts, đã cho biết tại một cuộc trả lời phỏng vấn hôm 14/7 rằng những tài liệu vừa được công bố đã làm ông hết sức bất ngờ. Tháng 2 năm 1968, khi nhữn cuộc tranh luận căng thẳng nhất về vấn đề này đang diễn ra trong ủy ban thì ông Kerry đang có mặt trên một con tàu hướng tới Việt Nam. Theo ông Kerry, việc công bố những ghi chép nói trên “đã cho thấy các Thượng nghị sĩ đã phải vật lộn với tính phức tạp của vấn đề trong khi thế hệ chúng tôi sống với nó theo cách riêng của mỗi người. Bạn chắc chắn sẽ chẳng thể tưởng tượng được rằng trong căn phòng đó ở Tòa nhà Quốc hội, các nhà lập chính sách đã phải khổ sở về vấn đề đó như thế nào và đã có những cuộc tranh luận mệt mỏi về nó như thế nào.” Tuy nhiên, rốt cục, các Thượng nghị sĩ cũng đã không tiếp tục theo đuổi sự nghi ngờ của mình. Như ông Church đã phát biểu tại một phiên họp, nếu ủy ban tiếp tục đưa ra những bằng chứng chứng tỏ sự kiện Vịnh Bắc Bộ chưa bao giờ xảy ra thì “chúng ta đã tự làm mất uy tín của quân đội Mỹ, làm mất uy tín và có thể là hủy diệt hoàn toàn Tổng thống.” Ông Church cũng nói thêm rằng nếu ủy ban không có đủ bằng chứng để chứng minh cho sự hoài nghi của mình thì các “lực lượng lớn ở đất nước này – những lực lượng có nhiều ảnh hưởng, kiểm soát hầu hết các tờ báo và ủng hộ Tổng thống, sẽ không bỏ qua cơ hội để làm mất uy tín hoàn toàn ủy ban này. Ông Robert J. Hanyok, một nhà lịch sử thuộc Cục An ninh Quốc gia Mỹ, hôm qua đã trả lời một cuộc phỏng vấn rằng: “Đã có những nghi ngờ nhưng chẳng ai muốn tiếp tục làm rõ những nghi ngờ đó” có lẽ là bởi vì “họ cảm thấy đã đi quá xa.”
Tuy nhiên, hơn 30 năm sau khi cuộc chiến tại Việt Nam kết thúc, câu chuyện về "sự kiện Vịnh Bắc Bộ" mà chính quyền của Tổng thống Johnson lấy đó làm cớ ném bom ra miền Bắc Việt Nam hồi tháng 8/1964 cuối cùng đã được chứng minh là hoàn toàn bịa đặt. Hãng tin AFP hồi tháng 1 năm 2008 đã trích dẫn tài liệu mới giải mật của Mỹ khẳng định Hải quân Việt Nam không hề tấn công tàu chiến Mỹ ở Vịnh Bắc Bộ đêm 4/8/1964 như chính quyền Johnson đã dựng lên hòng che đậy âm mưu leo thang cuộc chiến. Bản báo cáo dài 500 trang của Hiệp hội Khoa học Mỹ mang tên "Spartans in Darkness" (tạm dịch là Chiến binh trong Bóng tối) cho biết: ’’Thông tin giải mật cho thấy không những không đúng như Bộ trưởng Quốc phòng Robert Mc Namara tuyên bố với Quốc hội Mỹ rằng bằng chứng của vụ tấn công là không thể chối cãi mà trái lại các thông tin tình báo đã chứng minh không có bất kỳ vụ tấn công nào xảy ra trong đêm đó’’.[/size][/justify]
|