Vinh quang chói lọi cùng ĐT Brazil
Pele khoác áo ĐTQG Brazil lần đầu tiên là ở trận thua 1-2 trước Argentina ngày 7/7/1957. Một năm sau, Pele đã được cả thế giới biết đến. Thuỵ Điển chính là nơi thiên tài Pele thực sự phát lộ. Dù phải tới trận thứ ba của Brazil và cũng là trận cuối cùng vòng bảng gặp Liên Xô, Pele mới chơi trận đầu tiên của mình ở một VCK World Cup nhưng chính ông đã giúp Brazil thắng 2-0, với một đường chuyền bóng cho Vava ghi bàn thứ hai. Khi đó, Pele là cầu thủ trẻ nhất giải và cũng là cầu thủ trẻ nhất từng chơi ở World Cup. Bàn thắng đầu tiên của ông ở World Cup là trong trận gặp xứ Wales ở Tứ kết. Bàn thắng duy nhất của trận đấu đó đã giúp Brazil tiến vào Bán kết còn Pele trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất từng gặp ở World Cup ở 17 tuổi 239 ngày. Gặp Pháp ở bán kết, Brazil dẫn 2-1 sau khi kết thúc hiệp 1 và sau đó Pele ghi tiếp một hat-trick để trở thành cầu thủ trẻ nhất lịch sử World Cup làm được điều đó. Ngày 19/6/1958, Pele trở thành cầu thủ trẻ nhất đá trận CK World Cup ở 17 tuổi 249 ngày. Ông ghi 2 bàn trong trận đấu lịch sử mà Brazil đánh bại Thuỵ Điển 5-2 và giành ngôi VĐTG lần đầu tiên đó.
Khoảng thời gian sau đó, Pele liên tục gặp xui xẻo từ những chấn thương khá nặng (năm 1962 và 1966). Trở lại ĐTQG đầu năm 1969, Pele nhanh chóng có những đóng góp quan trọng. World Cup 1970 tại Mexico cũng là giải đấu lớn cuối cùng mà Pele khoác áo ĐTQG và cũng là giải mà ông thể hiện vai trò lớn nhất trong thành công của đội bóng. Pele liên tục tỏa sáng để đưa Brazil vào CK gặp Italia. Sau khi đánh đầu ghi bàn mở tỷ số, ông còn có hai đường chuyền quyết định trong các bàn thắng của Jairzinho và Carlos Alberto. Brazil thắng trận 4-1.
Hồ sơ:
Pele, tên thật Edson Arantes do Nascimento
Sinh ngày 23/10/1940 tại Tres Coracoes, Brazil
Cao 1,74 m
Các CLB: Santos (1956-1974), New York Cosmos (1975-1977)
Với ĐT Brazil (1956-1971): chơi 92 trận, ghi 77 bàn
* Thành tích:
Tập thể: 10 chức vô địch bang Sao Paolo (Campeonato Paulista các năm 1958, 1960, 1961, 1962, 1964, 1965, 1967, 1968, 1969 và 1973); 3 Cúp vô địch giải liên bang Rio-Sao Paolo (Torneio Rio-Sao Paulo các năm 1959, 1963 và 1964); 1 Cúp vô địch Torneio Roberto Gomes Pedrosa (còn gọi là Taca de Prata, năm 1968); 5 chức vô địch Brazil (1961, 1962, 1963, 1964 và 1965); 2 Cúp Libertadores (1962 và 1963); 2 Cúp Liên lục địa (1962 và 1963); 1 Siêu Cúp Nam Mỹ (1968); 1 chức vô địch Bắc Mỹ (NASL Champions, năm 1977); 3 Cúp Vô địch thế giới (1958, 1962, 1970); 2 Cúp Roca (1957, 1963); 1 Cúp O'Higgins (1959); 1 Cúp Atlantica (1960).
Cá nhân: Cầu thủ xuất sắc nhất Nam Mỹ năm 1973; VĐV xuất sắc nhất thế kỷ 20 của Uỷ ban Olympic Quốc tế; Cầu thủ xuất sắc nhất thế kỷ 20 của FIFA (chung với Diego Maradona); Giải thưởng thành tựu trọn đời (Laureus World Sports Awards) của Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela năm 2000; Giải thưởng thanh tựu trọn đời dành cho Nhân vật thể thao của hãng truyền thông BBC tặng năm 2005.
Những vinh dự khác: Đại sứ sinh thái và môi trường Liên Hợp Quốc năm 1992; Đại sứ Thiện chí của UNESCO năm 1995; Tước hiệu Hiệp sĩ Anh quốc (KBE - tước hiệu cao quý thứ hai trong 5 hạng hiệp sĩ của Anh) năm 1997.